
Mĩ thuật Hà Nội xưa và nay
Năm 1010, bằng tầm nhìn chiến lược, vua Lý Thái Tổ đã dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long (tên do ông đặt) với khát vọng và ý chí vươn lên mạnh mẽ.
Công việc đầu tiên, nhà vua cho vời các gia đình thợ thủ công từ các làng nghề về Kinh đô lập nghiệp. Thăng Long – Hà Nội có lúc đã tập hơp tới 53 phường nghề và mỗi nghề tạo thành một tên phố mở đầu bằng chữ “Hàng”. Ông tạo điều kiện cho các nhóm thợ thủ công làm ra những sản phẩm có giá trị vật chất và tinh thần, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của tầng lớp Thị dân. Niềm tự hào của lớp người tứ chiếng được tụ hội về đây sống trong môi trường không gian sinh tồn hoàn toàn mới:
“Chẳng thơm cũng thể hoa Nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”

Thợ thủ công Hà Thành xưa
Thợ thủ công từ các làng nghề về đây đã có một tầm nhìn mới, không bị hạn chế bởi sự ràng buộc của thói quen và phong tục địa phương nơi ở cũ. Công dân vùng đất Kinh đô ngày càng được tôi luyện trở thành đầu tàu sáng tạo dẫn dắt nền kinh tế cả nước cùng phát triển.
Ngay Kinh thành có một làng tranh dân gian chuyên vẽ tranh thờ phục vụ nghi thức tâm linh của thị dân. Cuối thế kỷ XIX, người Pháp thiết kế quy hoạch đường phố đã đặt tên là phố Hàng Trống. Để phục vụ được yêu cầu thẩm mỹ cao của người dân Kinh đô, nghệ nhân dòng tranh này chỉ thực hiện một ván nét để in tranh. Phần màu sắc để vẽ tay cho thêm phần sáng tạo và dễ bề thỏa mãn yêu cầu của khách hàng. Gần với Kinh đô còn có làng tranh Kim Hoàng (huyện Hoài Đức, TP Hà Nội) không đủ sức cạnh tranh với dòng trang Hàng Trống nên từng thất truyền, và gần đây đang trong những cố gắng phục hồi.

Sạp tranh tại Hàng Trống năm 1959
Các huyện phía tây Hà Nội thuộc xứ Đoài xưa vốn đã nổi tiếng cả nước với câu “Cầu Nam, chùa Bắc, đình Đoài”. Đình làng là niềm tự hào của cả làng, ngoài công trình kiến trúc, còn có các tác phẩm điêu khắc trang trí trong đình, là cái hay được so sánh để đánh giá trình độ sáng tạo của các hiệp thợ. Nội dung thường là các đề tài: “Lao động làm ăn” như: cày trâu, săn bắn, dựng nhà…, cảnh “Lễ hội đình đám” như: bơi chải, đấu vật, chọi gà, chọi trâu, đánh cờ, chuốc rượu…và cảnh “Sinh hoạt cộng đồng, dân cư” như: mẹ cho con bú, cõng em, bế em, mời trầu, mời nước, nam nữ vui đùa, tắm chuồng… Cùng chung một đề tài được thể hiện nhưng không có hình nào giống hình nào trong các ngôi đình nổi tiếng của Hà Nội như: Tây Đằng, Thụy Phiêu, Chu Quyến, Cam Đà, Hạ Hiệp, Hoàng Xá…

Đình Chu Quyến
Một dân tộc luôn bị ngoại bang xâm lược và chịu ách áp bức đô hộ hơn một ngàn năm, trong nước luôn có chiến tranh giữa các dòng họ cầm quyền, nhưng các đề tài về con người đương thời được chạm khắc trang trí trong các ngôi Đình làng không bao giờ có hình ảnh chết chóc, tang thương. Người xem chỉ thấy một tinh thần lạc quan yêu đời rất hồn nhiên của người nông dân xưa ở các làng xã.

Chạm rồng tại đình Chu Quyến
Một phong cách tạo hình chỉ ở thời Lê Trung Hưng (1533 – 1789) mới có: Không có điểm nhìn cố định, người nghệ nhân như đứng từ trên cao nhìn xuống theo lối chim bay (thường gọi là “thấu thị phi điểu”). Kết hợp các kỹ thuật chạm lộng, đục bạt… sắc gọn làm cho các vật thể không có đường viền liên tục, chuyển động mở rộng đường hướng ra nhiều chiều. Ánh sáng trong Đình tuỳ thuộc theo thời gian hàng ngày vì thế nó chập chờn lãng mạn. Điêu khắc Đình làng rất gần chất Hội họa nên có nhiều cung bậc màu sắc nhờ ánh sáng và bóng tối. Sự sáng tạo của nghệ nhân thể hiện trực tiếp ở chất giản dị, đôn hậu đôi khi ngẫu hứng một cách hồn nhiên.

Nét chạm khắc đình Chu Quyến
Cũng trong thời gian này ở Tây Âu, phong trào Baroque ra đời khoảng những năm 1600 bắt đầu từ Rome rồi lan rộng khắp nước Ý và các quốc gia Phương Tây, trong đó trung tâm lớn nhất là xứ Flandre bao gồm Bỉ, Hà Lan và Bắc Pháp. Nghệ thuật Baroque ra đời được coi là một cuộc Cách mạng ở thế kỷ XVII mở đầu cho thời kỳ Khai sáng. Phong cách Baroque đặc trưng với “ánh sáng phóng đại, cảm xúc mãnh liệt, muốn thoát khỏi sự kiềm chế của lý tưởng Cổ điển”. Đương nhiên phong cách Baropue và nghệ thuật dân gian thời Lê Trung Hưng không có sự giao lưu Văn hoá để tiếp biến, nhưng đã có sự tương đồng trong ý niệm sáng tạo.
Mở đầu thời kỳ Hội nhập Quốc tế chủ yếu hội nhập Văn hoá phương Tây thông qua Pháp. Năm 1925 trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông dương được thành lập và khai giảng khoá đầu tiên tại Hà Nội. Nghề học vẽ tuy mới mẻ và lạ lẫm với người Việt Nam nhưng rất được tầng lớp trung lưu nhiệt thành hưởng ứng. Lớp lớp Hoạ sĩ ra trường hoạt động sáng tác hiệu quả đã tạo nên một thú chơi tranh nghệ thuật cho lớp thị dân Hà Nội.

Sinh viên trường Cao đẳng Mĩ thuật Đông Dương
Họa sĩ Tô Ngọc Vân (1906 – 1954) chuyên vẽ tranh thiếu nữ áo dài. Bởi sự hưởng ứng kiểu áo dài cách tân đầu tiên do họa sĩ Nguyễn Cát Tường thiết kế. Thường gọi là áo dài Le Mur tân thời vì nó tôn vẻ đẹp sang trọng và kiêu xa của người phụ nữ nên rất được ưa chuộng. Vì thế những bức tranh của Tô Ngọc Vân rất ăn khách . Có nhiều khách hàng, bức vẽ chưa xong người đặt hàng đã đòi mang về. Ông có tiền thuê mẫu và làm việc tại phòng vẽ của mình.
![]() “Thiếu nữ bên hoa huệ” của họa sĩ Tô Ngọc Vân sáng tác năm 1943 |
![]() Tranh “Hai thiếu nữ và em bé” của họa sĩ Tô Ngọc Vân sáng tác năm 1944 |
Họa sĩ Nguyễn Gia Trí (1908 – 1993) người huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội, là người có công đưa chất liệu sơn mỹ nghệ lên thành chất liệu sơn mài hiện đại. Chịu ảnh hưởng của kỹ thuật sơn dầu phương Tây, ông vẽ sơn mài nhiều lớp, sau khi mài đã tạo cho tranh những lớp màu sâu thẳm, ẩn hiện tinh tế rất gần gũi với phong cách sơn dầu.

Tranh sơn mài “Thiếu nữ trong vườn” của họa sĩ Nguyễn Gia Trí sáng tác năm 1939

Tranh sơn mài “Phong cảnh” của họa sĩ Nguyễn Gia Trí sáng tác năm 1939
Trong giai đoạn đầu của trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương đã xuất hiện “bộ tứ” Danh họa “Nhất Trí, nhì Lân, tam Vân, tứ Cẩn” (tức là: Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Tường Lân, Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn).
Giai đoạn cuối của trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương cũng xuất hiên “bộ tứ” gồm những họa sĩ danh tiếng, có nhiều tác phẩm có giá trị tìm tòi và sáng tạo, đóng góp cho nền Mỹ thuật Hiện đại Việt Nam. Đó là “bộ tứ” Danh họa “Sáng, Nghiêm, Liên, Phái” (tức là: Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích Liên, Bùi Xuân Phái).
Bùi Xuân Phái (1920 – 1988) là một trong những họa sĩ thuộc thế hệ cuối cùng của sinh viên trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Ông nổi tiếng với các tác phẩm vẽ về phố cổ Hà Nội. Với “tình yêu Hà Nội”, ông thích vẽ phố cổ với “mái ngói nhấp nhô, tường rêu phủ kín”. Tranh ông chỉ có không gian, không có thời gian đã để lại bao hoài niệm nhớ nhung da diết. Những người yêu quý ông gọi những bức tranh này là “Phố Phái”.
![]() Họa sĩ Bùi Xuân Phái |
![]() Tranh sơn dầu “Phố cổ” của họa sĩ Bùi Xuân Phái sáng tác năm 1987 |
Ngày nay Hà Nội có tới mấy nghìn họa sĩ, họ theo đuổi nhiều đề tài, nhiều phong cách khác nhau. Ngoài những chất liệu các họa sĩ thường vẽ như: sơn dầu, sơn mài, lụa, chất liệu tổng hợp; điêu khắc có đồng, gốm và các tác phẩm xếp đặt, hình thể do chính các nghệ sĩ tạo hình tự biểu diễn.

Một bức tranh gốm trên con đường gốm sứ Trần Nhật Duật
Có tranh ghép mảnh của nhóm hoạ sĩ bên đê sông Hồng dài mấy cây số hoặc nhóm họa sĩ vẽ tranh tường trên phố Phùng Hưng đã gợi lại bao cảnh xưa người cũ của Hà Nội một thời để nhớ!
PGS.TS. Nguyễn Đỗ Bảo